Kỉ niệm 130 năm ngày sinh của Người: Những di sản quý báu từ tư tưởng và lí luận thực tiễn với ngành Giáo dục

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết
130 năm ngày sinh nhật Bác Hồ (19/5/1890 - 19/5/2020), chúng ta không chỉ nghiêng mình trước một cuộc đời, một con người với những cống hiến lớn lao mà còn ngưỡng mộ một nhân cách, một tầm tư tưởng. Di sản Người để lại là sự nghiệp cách mạng vĩ đại, là kết quả cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là những sáng tác nghệ thuật tầm cỡ…, và quan trọng hơn hết là hệ thống tư tưởng tiến bộ mang tính thực tiễn luôn sáng giá trị trong đấu tranh cách mạng thời kì mới.

“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.”

(Trích “Bác ơi!” - Tố Hữu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên Nguyễn Ái Quốc). Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến những kiếp người nô lệ lầm than, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho đất nước, cơm no áo ấm, học hành cho nhân dân. Ngày 5/6/1911, với tên Văn Ba, Người lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).

Từ năm 1912-1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913, người thanh niên yêu nước ấy đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917 trở lại nước Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

“Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười.”

(“Người đi tìm hình của nước” - Chế Lan Viên)

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tìm đúng con đường vừa giải phóng dân tộc, giải phóng người lao động bị bóc lột cùng khổ. Tháng 12/1920, Người tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp, đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phô-bua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo “Người cùng khổ”...Ngày 13/6/1923, Bác rời nước Pháp đi Đức và đến Xanh-pê-téc-bua (Liên Xô).

Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong hội Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản.

Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925), tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm “Đường Cách mệnh”. Mùa hè 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, đi Đức, bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia…rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929. Từ ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Bác chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Người trở về nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Bác chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc bắt liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương, bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Trong thời gian bị giam giữ, Người viết tập thơ “Nhật ký trong tù”. Tháng 9/1943, Người được thả tự do, trở về căn cứ Cao Bằng; Tháng 12/1944 chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 5/1945, tại Tân Trào (Tuyên Quang), theo đề nghị của Bác, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.

Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Những năm 1945 - 1954, Bác cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, kiêm Thủ tướng Chính phủ, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa miền Bắc đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.

Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn lao. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và tình đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bác đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi. Đi theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; và chính trong quá trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua cuộc đời đầy gian khổ hy sinh mà vô cùng cao thượng, trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời của Người là biểu tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết; đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói, cách làm việc. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong mỗi chúng ta.

Việt Nam hôm nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh lớn mạnh; độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đất nước phát triển, nhân dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc đã chứng tỏ tư tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai. 

Cùng sự tưởng niệm thành kính của tất cả các cấp, ngành và nhân dân cả nước, trong những ngày tháng 5 này, toàn ngành giáo dục và đào tạo đã và đang tích cực thực hiện tốt chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Sinh thời, Người rất quan tâm và không ngừng trăn trở về việc đào tạo những thế hệ kế tiếp sao cho “vừa hồng, vừa chuyên” nên ngành giáo dục nước nhà đã và đang được thừa hưởng những di sản vô cùng quý báu Người để lại cả về lí luận và thực tiễn.

Từ khi chính quyền non trẻ được thành lập, Đảng và nhà nước luôn coi giáo dục “là quốc sách hàng đầu”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang,… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”. Chính bởi lẽ đó mà những lớp bình dân học vụ “diệt giặc dốt” theo lời kêu gọi của Bác được mở ra ở khắp mọi nơi; mục tiêu, mơ ước “dân ta ai cũng được học hành” thành sự thật; chúng ta hiện tại đã đạt những bước tiến lớn trong phổ cập giáo dục và xóa nạn mù chữ: 63 tỉnh thành phố trên cả nước đều đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi và phổ cập tiểu học để từ đó tiến xa hơn trong đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập, được quốc tế ghi nhận. Đất nước phát triển được như ngày hôm nay từ những lạc hậu phong kiến, những hệ lụy chiến tranh tàn khốc; trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt … đã chứng minh quan điểm đúng đắn và tiến bộ của Bác trong lời dặn dò: “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.

Vai trò của người Thầy trong công tác giáo dục cũng được Bác trân trọng, đề cao để người Thầy từ đó mà tự hào về nghề của mình, nỗ lực cố gắng, dâng hiến hết mình cho sự nghiệp trồng người cao quý, làm tròn vai trò, trọng trách với Đảng với Nhân Dân. Bác xem việc dạy học là một nghề đào luyện những thế hệ con người xây dựng xã hội, vì thế Người từng nói: “ Nhà giáo là nghề có sự cống hiến rất thầm lặng nhưng rất mực vẻ vang”; “Người thầy giáo tốt là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh”. Để làm được điều đó, người Thầy cần hội tụ ít nhất hai điều kiện là: kiến thức và lòng yêu nghề. Trong tư tưởng của Người, chúng ta luôn tìm thấy những trăn trở, những yêu cầu, những lời dặn dò và kỳ vọng to lớn đối với việc xây dựng đội ngũ nhà giáo bởi nó quyết định sự thành công của công cuộc xây dựng và đổi mới nền giáo dục. Người nhắc nhở: “Các thầy, cô giáo phải trở thành tấm gương sáng, thành kiểu mẫu cho các em noi theo, phải là kiểu mẫu về mọi mặt, tư tưởng, đạo đức, lề lối làm việc”. Tấm gương của người thầy đối với học sinh trong mọi xã hội là rất quan trọng, Người nói: “Óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ, vì vậy sự học tập ở nhà trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của thanh niên là tương lai của nước nhà. Do đó, người thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu”. Đối với đội ngũ nhà giáo, tài là sự am hiểu, vốn tri thức, vốn kinh nghiệm thực tiễn của người thầy; đức là tư cách, tình yêu thương, trách nhiệm của người thầy đối với nghề, với các em học sinh. Các thầy giáo cô giáo của thời đại mới hôm nay luôn nêu cao tinh thần ấy để trở thành tấm gương sáng về đạo đức, luôn được xã hội xem là biểu tượng của văn hóa, là đại diện cho văn minh thời đại.

Phương pháp dạy học, phương pháp truyền thụ kiến thức đến người học, phương pháp lĩnh hội tri thức mà Bác Hồ để lại cũng tạo nên hệ thống tư tưởng, trở thành những kinh nghiệm cần thiết không chỉ với những người làm công tác giáo dục mà nó cần thiết cho tất cả mọi người trong quá trình học tập. Hệ thống phương pháp ấy được thể hiện trong suốt cuộc đời hoạt động của Bác, trong những buổi nói chuyện cùng các nhà giáo, các cháu học sinh, sinh viên …

Từ khi còn nhỏ theo cha học Nho học, rồi khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây tại trường Pháp - Việt cho đến khi làm thầy giáo tại trường Dục Thanh, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rất trăn trở với những kiến thức sách vở của Nho giáo, với những khẩu hiệu của người Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Người nhận thấy sách vở trái với thực tiễn đời sống và nhất là đời sống người lao động, khác xa với tình hình đất nước hiện tại. Bởi vì thế, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã có tư tưởng mới và phương pháp giảng dạy mới gắn với thực tiễn, với nhu cầu của đất nước, của nhân dân: Giáo dục lòng yêu nước, tư tưởng giải phóng dân tộc, mở mang dân trí…Nhìn thấy nhiều phong trào yêu nước thất bại, Người đã phá bỏ những giáo điều của tư tưởng Nho học hàng nghìn năm để tìm đến con đường cứu nước mới. Từ tư tưởng ấy của Bác, các nhà giáo dục học đã học được những bài học chiến lược: Gắn giáo dục với yêu cầu thực tiễn, tránh giáo điều, máy móc; lí luận phải gắn với thực tế xã hội, với yêu cầu phát triển của nhân loại.

Mỗi hoàn cảnh xã hội, mỗi thời kì lịch sử sẽ có những đòi hỏi khác nhau về con người trong sự phát triển. chính vì thế nên phương pháp dạy học và yêu cầu với công tác giáo dục cũng phải không ngừng thay đổi. Sau Cách Mạng Tháng 8, chính quyền được thành lập, Bác Hồ lại càng quan tâm nhiều hơn nữa đến giáo dục. Người thường xuyên đến thăm các trường học, có những buổi nói chuyện với các thầy cô giáo, với các em học sinh. Trong những cuộc gặp gỡ thân mật ấy, nhiều bài học quý giá được ngành giáo dục áp dụng cho đến ngày nay. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố con người, với những yếu tố then chốt như hiểu biết, năng lực, đạo đức,… có vai trò quyết định đối với sự thành công của cách mạng và tiến bộ xã hội. Ở con Người, Bác đề cao cả Tài lẫn Đức nhưng chú trọng hơn ở đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng, Bác đã dạy rằng: “Người có tài mà không có đức thì là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Trong những năm gần đây, giáo dục của chúng ta đã và đang hướng đến giáo dục toàn diện, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, phát triển năng lực người học, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp…phần nào đáp ứng được kì vọng về con người mới toàn cầu và cũng gắn với lí tưởng của Bác.

Nguyên lý “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”, “giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” cũng nằm trong hệ thống tư tưởng giáo dục mà Chủ tịch Hồ CHí Minh để lại. Bác cho rằng: Người giáo viên cần giúp cho học sinh thấy học là quyền lợi, là trách nhiệm của mỗi người, gắn liền với mỗi cá nhân thì học là nhằm “cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào cải tạo xã hội”. Vượt trên cá nhân, là gắn liền với mục tiêu cao cả của cách mạng là: “Học là để làm kinh tế, chính trị, văn hóa đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết… Để xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “hành” tức là thực hành, là làm việc, là sự vận dụng những điều đã học nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Nếu coi “học” là việc tiếp thụ tri thức, kinh nghiệm thực tiễn, thì “hành” là sự vận dụng những tri thức lý luận, kinh nghiệm thực tiễn để giải quyết bài tập, vận dụng vào hoạt động lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Vận dụng nguyên lý “Học đi đôi với hành” trong dạy và học là một sự chuyển hướng rất cơ bản trong phương thức đào tạo, làm cho nhà trường gắn kết với đời sống xã hội rộng lớn. Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần liên hệ với thực tiễn chính trị - xã hội ở trong nước và trên thế giới, có thực tiễn minh họa thì bài giảng mới sinh động, vấn đề truyền đạt sẽ được cụ thể hóa, mang tính thời sự mới nhất; tổ chức sinh hoạt ngoại khóa…tạo tính hấp dẫn, tính thực tiễn trong giảng dạy. Học sinh học lí thuyết cần được tạo điều kiện để thực hành, nhất là trong các trường đào tạo nghề…để tránh lối học chay, học vẹt, lí thuyết suông giáo điều.

Chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo như thế nào trước hết phụ thuộc vào quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh, Bác khẳng định: “Học trò tốt hay xấu đều do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu… phải luôn luôn đặt câu hỏi: Dạy ai?... Dạy để làm gì?... lúc đó mới tìm cách dạy. Giáo viên nên khêu gợi những kinh nghiệm để tìm cách dạy tốt”. Theo đó, trước và trong khi giảng dạy, mỗi giáo viên, giảng viên cần nắm rõ trạng thái tâm lý, đạo đức, năng lực chung của người học, từ đó có sự lựa chọn phương pháp, nội dung, vấn đề mang tính trọng tâm, trọng điểm để trao đổi, gợi mở hướng nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần lấy người học làm trung tâm, phát triển trí tuệ, phát huy tính độc lập, sáng tạo và tính tích cực của người học. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Phải tuyệt đối tránh nhồi sọ”, “không nên học thuộc lòng từng câu, từng chữ”, “tuyệt đối không nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”. Những lời căn dặn ấy có ý nghĩa quan trọng trong quá trình dạy và học: không nên đào tạo, giáo dục học sinh thành những con người thụ động, máy móc mà cần phải đào sâu suy nghĩ và nhấn mạnh khả năng tự giác học tập, việc học phải lấy tự học làm nòng cốt và phải có hướng dẫn tự học. Đây là phương pháp dạy học tích cực mang tính thời đại - dân chủ, nhân văn vì nó hướng vào người học để bảo đảm quyền lợi học tập và phát triển cho người học.

Thực hiện phương pháp giáo dục bằng tình cảm là một nghệ thuật. Muốn giáo dục thành công học sinh thì trước hết, người giáo viên, người cán bộ quản lý giáo dục phải yêu thương, tôn trọng và quý mến học sinh. Người cũng nhấn mạnh, cần phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, thầy và trò. Từ chỗ thương yêu, trân trọng giá trị con người phải đi đến thực hiện nguyên tắc dân chủ đối với mọi người. Trong quá trình dạy - học, mỗi giáo viên cần xây dựng cho được mối quan hệ nhân văn, dân chủ giữa giáo viên và học sinh. Mối quan hệ dân chủ ấy không chỉ có một chiều mà phải luôn đi liền với kỷ cương, kỷ luật, dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy tôn trọng trò chứ không phải “cá đối bằng đầu”. Phương pháp giáo dục này có sự kế thừa truyền thống của nhân đạo của dân tộc ta, kế thừa tư tưởng nhân văn - dân chủ của các nhà tư tưởng lớn, các nhà sư phạm lớn trên thế giới. Đây cũng là một con đường, phương pháp hiệu quả để nâng chất lượng dạy - học trong sự nghiệp giáo dục hiện nay. 

Kiểm tra nhằm đánh giá, khơi dậy khả năng tự bộc lộ, tự điều chỉnh những mặt còn hạn chế, đồng thời, phát triển những ưu điểm để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ của học sinh. Đây là một chức năng của người quản lý nhằm thiết lập quan hệ giữa người lãnh đạo, nhà quản lý với những đối tượng quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy rằng: “Kiểm soát có hai cách: Một cách thì từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”. Đây là phương pháp kiểm tra mang tinh thần dân chủ, đổi mới theo hướng xây dựng hai chiều giữa người kiểm tra và người được kiểm tra. Nếu vận dụng phương pháp kiểm tra ấy trong nhà trường thì người quản lý trong quan hệ với giáo viên, người thầy trong quan hệ với học sinh cũng  được phát triển theo tinh thần dân chủ. Còn đối với học sinh sẽ là điều kiện để phát huy tính tích cực tự giác, tinh thần chủ động sáng tạo trong quá trình học tập và rèn luyện; phát huy mạnh mẽ khả năng tự quản và tự giáo dục của học sinh, đồng thời góp phần tối ưu hóa quá trình đào tạo trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy - học.

Không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng năng lực, phẩm chất của đội ngũ nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm đến việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đoàn kết, dân chủ, bình đẳng, tương trợ. Người luôn tâm niệm, là người giáo viên cần phải có tinh thần đoàn kết, kỷ luật, phát huy dân chủ, đó là mối quan hệ gắn bó giữa thầy với thầy, thầy với trò, cần đoàn kết toàn thể nhà trường thành một khối, phát huy cao độ tinh thần dân chủ, tạo nên sức mạnh, phát huy tính năng động, sáng tạo và đổi mới trong giáo dục. Người nói: “Trong trường cần có dân chủ, đối với mọi vấn đề thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có vấn đề gì đều thật thà phát biểu, điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt, dân chủ nhưng trò phải phải kính thầy, thầy phải quý trò”. Trong quan niệm của Bác, đã là nhà giáo phải yêu người, yêu nghề, yêu trường, yêu lớp, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Người căn dặn: “Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên phải thật thà yêu nghề của mình”. Yêu nghề, yêu người là cơ sở để các thầy, cô yên tâm công tác, say mê, toàn tâm, toàn ý với công việc; biết vươn lên, nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp; nâng cao tinh thần trách nhiệm, yêu thương học sinh như con, em ruột của mình, không thiên tư, thiên vị. Chỉ như vậy, các thầy, cô giáo mới đi tới sự đoàn kết thực sự, chung sức chung lòng, vì tương lai của con em ta, dân tộc ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người thầy, một nhà giáo dục vĩ đại. Cả cuộc đời, Người đã giáo dục, đào tạo biết bao thế hệ cán bộ quản lý, lãnh đạo, những chiến sĩ ưu tú cho cách mạng. Theo Người, đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà được hình thành, củng cố và phát triển.

Có thể thấy rằng, những tư tưởng mà Người nêu ra mang tầm ý nghĩa thời đại. Sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minh kiểm nghiệm, những lời dạy của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khi đất nước đang trên đường hội nhập quốc tế, nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển thì vai trò của người thầy càng rất quan trọng và cùng với nó là yêu cầu đặt ra cho người thầy cũng ngày càng cao hơn về mọi mặt.

Hiện nay cả nước đang tổ chức thực hiện “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ngành Giáo dục trong đó có đội ngũ giáo viên đã và đang tích cực hưởng ứng phong trào thiết thực này bằng việc thi đua dạy tốt, học tốt, đó là đòn bẩy cho sự phát triển của nền giáo dục nước nhà. Người thầy cần phải thường xuyên thi đua trong mọi lĩnh vực của công tác giáo dục, trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những thời điểm khó khăn, để các thầy cô giáo có điều kiện thể hiện hết khả năng của mình, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục nhằm đạt được mục tiêu cao cả mà nền giáo dục đã đề ra nhằm hướng tới xây dựng một xã hội “Công bằng, dân chủ, văn minh”.

Bùi Thị Hồng Thương - THPT Lạng Giang số 1

Trung bình (0 Bình chọn)

Chúng tôi trên Google Map! Chúng tôi trên Google Map!

Tin mới nhất Tin mới nhất

VĂN PHÒNG SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÃNH ĐẠO VĂN PHÒNG Đ/c Lưu Hải An Chánh Văn phòng ...

Thư viện ảnh Thư viện ảnh

Thống kê truy cập Thống kê truy cập

Đang truy cập: 4,833
Tổng số trong ngày: 8,605
Tổng số trong tuần: 8,604
Tổng số trong tháng: 407,967
Tổng số trong năm: 3,358,742
Tổng số truy cập: 16,503,874